Sự giáo dục hiện đại Chủ_nghĩa_tự_học

Sự tự học đôi khi được cho là sự hỗ trợ cho giáo dục hiện đại. Như một sự bổ túc giáo dục hiện đại, Sinh viên sẽ được khuyến khích làm việc độc lập nhiều hơn. Khi Leonardo da Vinci là một người tự học, thì Cuộc Cách mạng Công nghiệp(Industrial Revolution) tạo ra một điều kiện mới cho những người tự học(self-directed learners) 

Trước thế kỉ 20, chỉ một số ít người được hưởng sự giáo dục. Joseph Whitworth đã tuyên bố trong bài phát biểu lớn của mình từ năm 1853, Tỉ lệ người có học thức thì cao hơn ở Mỹ.Tuy nhiên, thậm chí tại Mỹ, hầu hết trẻ em không hoàn tất chương trình trung học tại thời điểm đó. Giáo dục trung học là cần thiết đẻ trở thành một giáo viên. Ngày nay, Một tỷ lệ lớn hơn người hoàn tất chương trình trung học và tham dự trường Cao đẳng, thường để theo học chuyên một ngành nào đó, như là Luật hay Y học, hay Thần học.[1]

Tuy nhiên, đối với một số nghề hay một số kiến thức cá nhân, ngày nay, Giáo dục chính thống là không cần thiết vì sự truy cập dễ dàng đến thông tin trên Internet. Trái với quá khứ, một trong những lợi ích chính của việc đến trường là để sử dụng Thư viện hiện đại của trường Đại học, thì ngày nay việc kết nối đến dữ liệu và những cuốn sách thực hiện thông qua mạng internet. Nhà phân tích kinh tế và hoạch định kế hoạch Peter Schiff, một lần, nói rằng "Trước đây trong lịch sử việc tự giáo dục không bao giờ là quá dễ dàng[2]

Giảng dạy ở bậc Đại học dựa trên sự giáo dục cổ(Tiếng Latin, Triết học, Lịch sử cổ đại, Thần học) cho đến đầu thế kỉ 19. Có rất ít trường hợp các trung tâm giáo dục chất lượng cao yêu cầu nghiên cứu về kỉ thuật hay khoa học trước năm 1800. Những Học viện như Royal Society tích cực đẩy mạnh việc nghiên cứu khoa học, bao gồm cả những bài giảng công cộng. Tại Anh, Cũng có những giảng viên lưu động cung cấp những dịch vụ của họ và có tính phí..[3]

Trước thế kỉ 19, Có những nhà phát minh lớn làm việc như những công nhân cối xay và thợ máy với sự giáo dục cơ bản và biết tay nghề.[1] Thợ cơ khí, Thợ thủ công, người kiểm định có sự giáo dục về nhiều loại toán học. James Watt là một nhà kiểm định, thợ thủ công và được cho là một người "tự học vĩ đại".[4] Watt, như những người tự học cùng thời, trở thành thành viên danh giá của tổ chức Royal Society và Lunar Society. Trong thế kỉ 18, những nhà hoạt động xã hội này thường gửi những bài diễn văn công cộng và hỗ trợ việc dạy Hóa học, các môn khoa học khác có thể ứng dụng trong công nghiệp, những môn này thường bị các trường Đại học bỏ qua. Các viện Hàn Lâm cũng bắt đầu phát triển việc cung cấp các khóa huấn luyện Khoa học và kĩ thuật.

Những năm học tại trường học ở Mỹ bắt đầu tăng đáng kinh ngạc vào đầu thế kỉ 20. Hiện tượng này dường như liên quan đến việc tăng cường máy móc để thay thế lao động trẻ em. Những cỗ máy sản xuất tự động chai thủy tinh được cho rằng đã đóng góp nhiều hơn cho sự giáo dục so với Luật lao động trẻ em. Vì những cậu bé không còn cần tới sự giúp đỡ nữa.[5] Tuy nhiên, số lượng cậu bé được các công ty thuê không nhiều. Sự cơ giới hóa trong một số bộ phận công nghiệp đã thay thế lao động trẻ em có giáo dục. Đối với những người đàn ông sinh từ năm 1886-90 có số năm đến trường trung bình là 7.86, trong khi đó, Những người đàn ông sinh từ năm 1926-30 có số năm học trung bình là 11.46..[6]

Một trong xu hướng giáo dục gần đây là Môi trường lớp học nên cung cấp cho nhu cầu, mục đích, sở thích của từng cá nhân. Mô hình này sử dụng phương pháp học tập dựa trên việc đặt câu hỏi. Ở đây, sinh viên được giới thiệu với mô hình để xác định hướng nghiên cứu của họ, câu hỏi và kiến thức liên quan đến chuyên ngành. Như một hình thức của sự học khám phá(discovery learning). Sinh viên trên giảng đường ngày nay đang được cung cấp nhiều cơ hội để "trải nghiệm và tương tác" với kiến thức, những điều cơ bản của sự tự học(autodidacticism).

Sự thành công của việc tự học yêu cầu ý thức tự kỉ luật và khả năng suy nghĩ sâu(reflective capability). Một vài nghiên cứu đề cập rằng Khả năng tự kỉ luật trong việc học phải dược chỉ dạy cho những sinh viên, vì nó không phải một xu hướng tự nhiên của loài người.[7] Để tương tác với môi trường, một khuôn mẫu đã được xây dựng để quyết định những thành phần của bất kì hệ thống học tập này: Chức năng phần thưởng(a reward function), chức năng giá trị hành động gia tăng(incremental action value), những phương pháp chọn lọc hành động.[8] Những phần thưởng có giá trị kích thích việc học tập khi mà họ được chọn một cách chính xác cho những sinh viên xứng đáng. Những thông tin mới được thêm vào thông tin cũ để nâng cao kiến thức theo cách là kiểm định giá trị của thông tin mới. Cuối cùng, phương pháp học tập theo mục đích này(scaffolding techniques), như được mô tả bởi Vygotsky (1978) và những phương pháp giải quyết vấn đề là kết quả của việc đưa ra những quyết định mềm dẻo(dynamic decision)

Những xã hội thế tục và hiện đại tạo ra nguồn gốc cơ bản cho hệ thống giáo dục mới. Trong khi số lượng trường học và sinh viên tang từ thế kỉ này sang thế kỉ khác, thì số người tự học cũng tăng theo. Cuộc cách mạng công nghiệp tạo ra những công cụ giáo dục mới được sử dung trong trường học, trường Đại học và những nhóm người tự học để tạo ra một kỉ nguyên hậu hiện đại nơi mà xuất hiện World Wide Web và những ngân hàng dữ liệu bách khoa như Wikipedia. Khi mà những khái niệm này trở nên phổ biến và rộng rãi hơn, những trang web như UdacityKhan Academy được phát triển như nhũng trung tâm học tập cho nhiều người để cùng nhau học một cách năng động và tự do.

Tài liệu tham khảo

WikiPedia: Chủ_nghĩa_tự_học http://129.3.20.41/eps/mac/papers/0502/0502021.pdf http://www.ordredesarchitectes.be/fr/textes/juridi... http://www.legifrance.gouv.fr/affichTexte.do;jsess... http://www.architectsalliance.ie/ http://www.aaruk.info/Legislation/Act31.PDF http://www.ordinearchitetti.fi.it/writable/Documen... http://savefrom.net/?url=https://www.youtube.com/w... https://stackoverflow.com/research/developer-surve... https://www.youtube.com/watch?v=vT3wmLjPAQ0&t=27m2... https://web.archive.org/web/20101226220737/http://...